Ngôi Lời của Thiên Chúa đã đến làm người trong một gia đình. Vì thế, hằng năm, vào Chúa Nhật
sau lễ Giáng Sinh, Hội Thánh mừng kính Lễ Thánh Gia Thất của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh
Giuse. Thánh Gia trở thành một mẫu gương nổi bật cho các gia đình Kitô hữu noi theo. Các bài đọc
hôm nay cho thấy vai trò và bổn phận mà mỗi thành viên trong gia đình phải có để kiến tạo một gia
đình hạnh phúc; đồng thời cho thấy những phúc lành mà Thiên Chúa hứa ban cho một gia đình
sống theo thánh ý Thiên Chúa. “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ
cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được
trường thọ...” Tư tưởng này rất phù hợp với đạo hiếu “uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu”
của người Việt Nam. Là cha mẹ, chúng ta có ý thức được rằng đời sống và các hành vi của bản
thân là bài học chính cho con cái hay không? Là con cái, chúng ta có ý thức được phận làm con
của mình, cụ thể là sống hiếu thảo thì sẽ đẹp lòng Chúa, làm vui lòng cha mẹ, tích đức cho bản
thân; và đến lượt, sẽ có một gia đình hạnh phúc trong tương lai, sẽ được con cái kính trọng như
mình đã kính trọng với cha mẹ của mình hay không?
Lễ Giáng Sinh đã đến gần, Phụng vụ mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn, để khi chiêm ngưỡng
hang đá máng cỏ, chúng ta nhận ra những nhân vật hiện diện: Đức Trinh nữ Maria, Thánh
Giuse và nhất là Chúa Hài Đồng. Sự kiện Sứ thần truyền tin cho Đức Maria trong Tin Mừng
Thánh Luca được chú ý nhiều hơn là cuộc truyền tin cho Thánh Giuse, được Thánh Matthêu ghi
lại. Trong cuộc truyền tin này, tuy ngắn gọn, tác giả Matthêu cũng giới thiệu về tình trạng của
thôn nữ Maria: “trước khi hai ông bà chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh
Thần”. Tình trạng này cũng được chính Sứ thần giải thích với Giuse, với lời khuyên hãy đón
nhận người bạn đời. Sứ thần cũng hướng dẫn việc đặt tên cho Con Trẻ sắp sinh và nói về sứ
mạng tương lai của Con Trẻ, là Đấng Cứu độ. Giữa bối cảnh đầy lo âu và bất an bất ổn của
cuộc sống hôm nay, Lời Chúa nói với chúng ta như đã nói với Thánh Giuse: Đừng sợ!
Một ý tưởng nổi bật dễ nhận thấy khi nghe các Bài đọc Lời Chúa trong Phụng vụ Chúa nhật thứ ba Mùa Vọng, đó là niềm
vui. Cùng với ngôn sứ Isaia, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy vui lên. Đây là niềm vui của ngày chiến thắng, niềm vui của
người nông dân trong ngày gặt lúa, niềm vui của người được trở về quê cha đất tổ sau bao năm xa cách, niềm vui của cô
dâu chú rể và khách dự tiệc cưới. Quan trọng hơn cả, đó là niềm vui vì có Chúa hiện diện giữa dân Người.
Mỗi năm, khi Mùa Vọng về, Phụng vụ lại hướng chúng ta về thời Thiên sai. Đó sẽ là thời an bình. Trật tự hài hoà Thiên – Địa
– Nhân, là trật từ vốn đã có từ thời sáng tạo, sẽ được tái lập. Ngôn sứ Isaia đã say sưa chiêm ngưỡng một xã hội thanh
bình: “Sói ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt
chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái. Sư tử cũng ăn rơm như bò”. Qua ngòi bút của vị ngôn sứ, những loài động vật thường
ngày vẫn “không đội trời chung” lại trở nên thân thiện và chung sống hài hoà. Ai trong chúng ta cũng đều nhận ra, vị ngôn sứ
dùng hình ảnh thế giới động vật để diễn tả thế giới loài người. Khi Đấng Thiên sai đến, con người sẽ không còn thù ghét và
chống lại nhau. Tất cả trở nên thân thiện. Sẽ không còn bạo lực và chém giết. Mọi người sống với nhau trong tình huynh đệ.
Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Giêsu với một
danh xưng rất đặc biệt: Vua vũ trụ. Người là Vua công chính và là Đấng cứu độ. Trong Cựu ước, có ba
chức vụ được chính Thiên Chúa chọn và xức dầu, đó là vua, ngôn sứ và tư tế. Vì được Thiên Chúa
chọn, nên ba vị này hành động nhân danh Thiên Chúa. Họ cũng là người chuyển tải sứ điệp và lệnh
truyền của Chúa cho Dân riêng.
As we come near the end of ordinary time in our
liturgical calendar and about to enter the season of
Advent, our readings this weekend give us a
glimpse about what to expect when the end of days
comes and remind us the ways on how we prepare
best to meet the Lord. However, whenever we talk
about the end times, we could hardly hide our
mixed feelings. Some would want to hear and to
know more about it, others would not want to talk
nor hear something related with it; still others would
not care.
Mọi sự trong thế gian đều có ngày cùng tận, và ngay cả chính thế gian cũng có ngày cùng tận của nó.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói về ngày cùng tận của thế gian và những điềm báo trước
ngày ấy. Điềm Ngài nói tới trước hết là các ngôn sứ giả đội lốt chiên (x. Mt 7,15) mạo danh người của
Thiên Chúa (x. Lc 21,8) để lường gạt nhiều người (Mt 21,11), nhờ thế họ được thế gian trọng vọng và
ưu đãi (x. Lc 6,26). Điềm kế tiếp là chiến tranh giữa các dân tộc, giữa các quốc gia, cùng với các thiên
tai (động đất, bão lụt, dịch tễ, đói kém...). Trong thời gian ấy, những người công chính hay các ngôn sứ
thật bị bắt bớ, ngược đãi, bách hại, cầm tù, hãm hại... Theo lời Đức Giêsu, thời này là một cơ hội tốt để
người Ki-tô hữu làm chứng cho Thiên Chúa, cụ thể là làm chứng cho công lý và tình yêu của Ngài.
Chính vì làm chứng như thế mà họ «bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp», kết án,
làm mặt lạ, «bị mọi người thù ghét», bỏ rơi, thậm chí bị giết. Nhưng không một sự gì xảy ra ngoài thánh
ý Thiên Chúa: «dù chỉ một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu!». Hãy tự hỏi ta có quan tâm
đến việc làm chứng cho Ngài, cho công lý và tình thương không? Cứ xem thời điềm thì biết được thời
đó sắp đến hay chưa. Người khôn ngoan thì luôn tỉnh thức vì biết rằng «ngày của Chúa sẽ đến như kẻ
trộm ban đêm» (1 Tx 5,2). Do đó, «hãy sống như giữa ban ngày» (Rm 13,13), «sống trong ánh sáng» (1
Ga 1,7), «không sống trong bóng tối kẻo ngày ấy như kẻ trộm đến bất chợt không hay biết» (1 Tx 5,4).
«Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước
mặt Con Người» (Lc 21,36). «Ai bền chí đến cùng, người ấy sẽ được cứu thoát»
Ngay từ đầu, Thánh Đường Latêranô được dâng kính Đấng Cứu Thế, với tước hiệu Vương Cung
Thánh đường Chúa Cứu Thế. Thế kỷ XII, nó cũng được dâng kính thánh Gioan Baotixita và thánh
Gioan tông đồ. Đại thánh đường Latêranô được xem là “Mẹ và là Đầu của mọi nhà thờ trên thế
giới”. Sở dĩ nhà thờ này có một chỗ đứng quan trọng trong Giáo Hội như thế là vì bốn lý do...
Hôm nay toàn thể Hội Thánh cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời: trong đó có ông bà,
cha mẹ, anh chị em và những người thân yêu của chúng ta. Đây là dịp để chúng ta xác tín
hơn vào mầu nhiệm các thánh cùng thông công, cũng là dịp để chúng ta tưởng nhớ cách
đặc biệt và tỏ lòng tri ân đến những thân nhân, ân nhân, bạn hữu xa gần mà nay đã lìa thế.
Anh chị em thân mến! Tuần trước Chúa Nhật 29, Chúa dạy chúng ta phải cầu nguyện
trong tinh thần kiên trì và phó thác. Chúa Nhật hôm nay, Chúa muốn nhắn nhủ mỗi
người chúng ta phải cầu nguyện với lòng khiêm tốn như người thu thuế và xác nhận con
người được công chính là nhờ chương trình của Chúa, chứ không phải do công lao của
mình. Nhìn lại bản thân của mỗi người, chúng ta chỉ là một tạo vật nhỏ bé trong vũ trụ
bao la, một con người với biết bao lầm lỗi, có làm được điều gì tốt lành thì cũng là do ơn
Chúa ban. Chính nhờ lòng khiêm tốn mà lời cầu nguyện của chúng ta sẽ được Thiên
Chúa xót thương và nhận lời. Chúng ta cùng cúi đầu chân thành nhìn lại những thiếu
xót, những lầm lỗi, thiết tha dâng lên Chúa tấm lòng tan nát khiêm cung, xin Chúa xót
thương tha thứ, để xứng đáng cử hành các Mầu Nhiệm Thánh.
Con cái Israel gặp thử thách về niềm tin khi giao chiến với Amalek. Khi ông Môisen giơ tay lên thì quân Israel chiến
thắng. Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa vẫn hằng ở với với họ và bênh vực họ. Ấy vậy mà họ còn hỏi nhau: Thiên
Chúa có còn ở giữa chúng ta nữa hay không? Niềm tin bị thử thách. Những kẻ thất tín sẽ rơi vào tay địch. Và ở
trong tay họ có tin tưởng cầu nguyện mới được cứu thoát. Timôthê thấy Phaolô thầy mình bị xiềng xích và giải
sang Rôma. Thầy mà như vậy, thì trò sẽ thế nào? Timôthê cảm thấy chán nản rã rời. Thầy bị xiềng xích rồi, việc rao
giảng Tin Mừng như thầy đã dạy bảo sẽ đi đến đâu? Niềm tin bị thử thách. Phaolô gửi thư ngay cho Timôthê
và khuyên: “Con hãy bền vững trong các điều con đã học... và hãy cứ rao giảng Lời Chúa!” (2 Tin Mừng 3,14).
Anh chị em thân mến! Bài Tin Mừng hôm nay nói về mười người bệnh phong được chữa
lành, mà chỉ có một người ngoại thuộc xứ Samaria đã tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa
và đến với Đức Giêsu là người đã chữa anh khỏi bệnh. Biết ơn không chỉ là phép lịch sự
trong việc giao tế giữa con người với nhau, nhưng còn là một thái độ của tinh thần trách
nhiệm, một cử chỉ của lòng thương mến. Vị tướng Naaman trong bài đọc I không chỉ nói
suông, nhưng còn tự nguyện dấn thân, thờ lạy và dâng lễ vật cho Thiên Chúa sau khi
ông được người của Thiên Chúa hướng dẫn, chỉ bảo và ông đã dìm mình xuống dòng
sông Giodan 7 lần và ông đã khỏi bệnh phong cùi.
Hành trình Đức tin là một hành trình liên lỉ, suốt đời. Tin vào Chúa là chọn Ngài làm lý tưởng tối thượng của
cuộc đời. Đức tin không giống như ghi danh vào một tổ chức xã hội, khi thích thì tuân thủ, khi không hài lòng
thì bất mãn tiêu cực. Gia nhập Giáo Hội không giống như xin việc ở một công ty, chỉ nhất thời tạm bợ và đòi
hỏi quyền lợi. Tin vào Chúa cũng là sự chọn lựa ưu tiên cho cả cuộc đời. Chính vì vậy mà cần phải có lòng
kiên trung, trong mọi biến cố hoàn cảnh. Đức tin Chúa ban là món quà quý giá đem lại niềm vui, đồng thời
cũng là nguồn sức mạnh để chúng ta vươn lên giữa dòng đời. Xã hội thời Đức Giêsu là chế độ nô lệ. Vì thế,
trong giáo huấn của Người, chúng ta vẫn thấy những hình ảnh ông chủ và người nô lệ hoặc người đầy tớ.
Chúa đã dùng những hình ảnh và quan niệm thời bấy giờ, để diễn tả nội dung giáo huấn của Người.
Anh chị em thân mến! Phúc hay họa không phải bởi của cải, nhưng chính là bởi người sở hữu của cải, bởi
cách sống và cách sử dụng của cải đó: có biết chia sẻ và phân phối của cải ấy cách công bằng và bác ái
không? Dụ ngôn người phú hộ và Lazarô mô tả một bức tranh tương phản, một khoảng cách rất gần mà lại rất
xa, hai con người với hai cuộc đời, hai hoàn cảnh trái ngược nhau. Nhà phú hộ dư ăn dư mặc, Lazarô nghèo
nàn đói lả. Hai con người ấy thật gần nhau trong khoảng cách, cách nhau có cái cổng, một cái cổng luôn khép
kín như lòng người giầu có, nhưng họ lại thật xa nhau trong tình người. Nhìn vào gương người phú hộ trong
bài Tin Mừng hôm nay và người ăn xin ngồi chờ những mẩu bánh vụn từ bàn ăn của người phú hộ rơi xuống,
chúng ta hãy tưởng tượng còn biết bao Lazarô trên thế giới cũng đang chờ đợi sự hảo tâm và chia sẻ của mỗi
người chúng ta, là những người may mắn hơn họ.
Hằng năm chúng ta cử hành Lễ suy tôn thánh giá Chúa Giê-su, được phụng vụ của Hội
Thánh quy định là lễ kính, vào ngày 14 tháng Chín. Theo truyền thuyết, cây thánh giá
của Chúa Giê-su đã được bà thánh Hê-lê-na (255-328, lễ kính ngày 18-8), mẹ của hoàng
đế Công-tăng-ti-nô I (288-337) tìm được và dựng lại tại nơi Chúa Giê-su đã bị đóng đinh,
tức là trên đồi Can-va-ri-ô, vào khoảng cuối thập niên thứ hai của thế kỷ IV.
Hành trình Đức tin là hành trình theo Chúa Giêsu và trở nên môn đệ của Người. Để trở nên môn đệ đích thực, người tín hữu phải luôn rèn luyện, học hỏi và trau dồi những nhân đức mà Chúa Giêsu đề nghị. Đi theo Chúa, không hẳn lập tức đã là môn đệ Người, nhưng còn hệ tại ở việc người theo Chúa có coi Người như một chọn lựa ưu tiên và một lý tưởng duy nhất của đời mình. Trong tiếng Hán, “môn” có nghĩa là “cửa” và “đệ” có nghĩa là “em”. Đi theo Đức Giêsu, có nghĩa nhận mình là em của Người, đồng thời chấp nhận đi qua Người như qua một cửa, để bước vào một không gian mới, không gian an bình, hạnh phúc. Nhờ được cư ngụ trong khôn gian này, mà người môn đệ tìm thấy an bình và nên hoàn thiện.
Jesus wants to teach us about the value of humility
and the importance of giving without thinking of getting
back something. Going more deeply, Jesus wants us also
to look at the poor who should be invited, “when you hold a
banquet, invite the poor, the crippled, the lame, the blind.”
We are also the poor, undeserving to be at and seated in
the position of honor yet God has invited us to the banquet,
given us a seat of honor and embraced us and made us
members of the one body of Christ. This, despite our
inability to pay or to earn it because of our weaknesses and
sinfulness.
Anh chị em thân mến! Theo Đức Giêsu thì trong xử thế chúng ta cần khiêm tốn, khiêm tốn thực sự chứ không phải chỉ giả vờ, vì chẳng ai yêu thích kẻ kiêu căng, cao ngạo. Với Thiên Chúa thì chúng ta lại càng phải khiêm tốn hơn nữa, vì Thiên Chúa luôn “hạ kẻ kiêu ngạo xuống mà nâng kẻ khiêm nhường lên”. Nếu suy nghĩ kỹ một chút, chúng ta sẽ thấy rằng mình chẳng có gì để kiêu căng! Mọi sự chúng ta có, chúng ta đều nhận được từ Thiên Chúa, từ Hội Thánh và cả xã hội! Nên thái độ thích hợp nhất là thái độ khiêm cung và biết ơn. Muốn học sống khiêm nhường, chúng ta phải chạy đến với Đức Giêsu là Đấng tự hạ tự hủy hoàn toàn, tuy Người là Thiên Chúa, là Ngôi Lời Nhập Thể. Chính Người đã chẳng mời gọi chúng ta: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” đó sao ? Vì thế, chúng ta hãy hạ mình xuống giục lòng thống hối ăn năn, khiêm nhường xin ơn tha thứ.
“Hãy vào qua cửa hẹp!”. Đó là lời mời gọi của Chúa Giêsu. Ai trong chúng ta cũng hiểu Chúa Giêsu muốn ám
chỉ một cuộc sống có kỷ luật và tuân theo giáo huấn của Người. Thông thường, người ta học điều xấu thì rất
nhanh và rất dễ, nhưng học điều tốt thì rất chậm và rất khó. “Cửa hẹp” mà Chúa Giêsu muốn nói ở đây chính là sự
kiên nhẫn và chuyên tâm thực hiện Lời Chúa. Để thực thi Lời Chúa, chúng ta phải trải qua những cố gắng hy sinh.
Như những vận động viên muốn đạt giải quán quân phải khổ chế tập luyện, những ai muốn nên thánh phải chấp
nhận tuân giữ những kỷ luật khắt khe. Một lối sống giả tạo bề ngoài sẽ bị kết án là “đồ bất chính”. Giáo huấn Tin
Mừng cần được thấm nhuần và trở nên nguồn động lực cho cuộc sống chúng ta, chứ không chỉ hời hợt bề ngoài.
Chúa lên án những ai chỉ giữ Đạo bằng môi miệng, còn thực tế thì đủ mọi mưu mô tính toán và gian lận.
Anh chị em thân mến! “Thầy đến để đem lửa xuống thế gian”. Lửa đây chính là sứ mạng cứu độ của Chúa, là ngọn lửa tình yêu mà Người muốn dùng để thanh tẩy, đốt nóng và làm cho bừng cháy lên ơn cứu độ của Người. Và Người khắc khoải biết bao để “lửa ấy vẫn cháy mãi lên” thiêu hủy những cằn cỗi, thanh lọc những ô nhơ, làm ấm lại cõi lòng băng giá và soi sáng con người trên bước đường tìm kiếm sự thật. Chúa muốn ngọn lửa tình yêu mà Người đã từng đem đến trần gian mãi mãi được thắp sáng lên trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Người yêu thương ta như đối tượng của tình yêu Người, mặc dù chúng ta vô ơn, bội phản hay quay lưng lại với tình yêu đó. Người kêu gọi từng người chúng ta hãy tiếp nối sứ mạng đem lửa thắp sáng khắp thế giới, bằng chính cuộc sống chứng nhân của mỗi người trong mọi hoàn cảnh.